Chuyện xây thành Đại La và đền thờ Bạch Mã
Cao Biền vốn là người U châu, là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn – người đã trấn áp cuộc nổi dậy của Lưu Tịch dưới triều đại của Đường Hiến Tông. Mặc dù gia tộc của Cao Biền đã vài đời làm quan trong cấm quân, song khi còn nhỏ Cao Biền là người giỏi văn và thường thảo luận về chuyện lý đạo với các nho sĩ. Tuy nhiên, Cao Biền cũng lại là một người rất tinh thông võ nghệ.
Theo đó, vào một hôm có hai con diều sóng đôi bay qua, Cao Biền giương cung nhắm bắn, một phát tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi Cao Biền là “Lạc Điêu Thị Ngự Sử”. Cuối thời Đường, sự phản kháng của nhân dân ta ngày càng tăng lên.
Những cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Mai Thúc Loan tuy cuối cùng đều bị đàn áp song đã làm lung lay thêm nền đô hộ mấy trăm năm của giặc phương Bắc. Trong bối cảnh ấy, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết Độ sứ cai trị dân ta. Trong thời gian làm Tiết Độ sứ, Cao Biền đã tiến hành xây thành Đại La và được xem là một trong những người tham gia vào quá trình tạo nên tòa thành quan trọng này.
Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (tức năm 767). Đến năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (tức năm 791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (tức năm 808), Trương Chu lại sửa đắp lại.
Rồi đến năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (tức năm 824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành. Sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (khoảng 6,6 km).
Thành cao 2,6 trượng (khoảng 8,67 m). Chân thành rộng 2,5 trượng (khoảng 8,33 m) với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn, 3 hào nước, 34 đường đi. Cao Biền còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (khoảng 7,09 km), đê cao 1,5 trượng (khoảng 5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (khoảng 6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long mạch của vùng đất này.
Tuy nhiên, có truyền thuyết khác kể lại rằng Cao Biền đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành.
Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Ngoài ra, chuyện này còn có dị bản khác trong đó thể hiện tài phép của Cao Biền không thể chế ngự nổi thần linh đất Việt. Theo đó, Cao Biền đã cho đắp thành Đại La.
Tranh Cao Biền cưỡi mây đi xem long mạch.
Vào một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kỳ dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng: “Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?”.
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ. Sau này, vua Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi tên gọi là thành Thăng Long.
Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau, nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa. Cũng từ đó, Thần Long Đỗ được phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần.
Nhiều lần thất bại khi cố gắng trấn yểm linh khí đất Việt
Sử sách và cả truyện dân gian truyền miệng nói khá nhiều về viên Tiết Độ sứ này, trong đó có không ít những chuyện liên quan đến bùa yểm, thần phép. Người ta truyền rằng, sau khi đã yên vị chức Tiết Độ sứ ở An Nam, Cao Biền bèn cưỡi chim thần đi khắp nước Việt để xem hết các phúc địa. Theo đó, mỗi lần trời nổi giông gió, sấm chớp là Cao Biền lại cưỡi kỳ lân bay sang nước ta và các vùng đất bên ngoài nước Trung Hoa.
Theo các đạo sĩ, khi có gió bão lớn, “rồng đất” sẽ thức dậy lộ ra. Linh khí của đất hiện lên để ứng hợp với sức mạnh của trời. Cao Biền bay lượn trên cao nhìn xuống phát hiện ra vùng đất nào có “long mạch” để yểm bùa xuống. Tuy nhiên, hầu hết các lần trấn yểm của Cao Biền đều không thể thắng lại được linh khí tinh anh của đất Việt.
Truyện sông Tô Lịch trong Lĩnh Nam chích quái đã kể như sau: “Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường Ý Tông sai Cao Biền làm Đô Hộ Tướng Quân, đem binh đánh quân Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt Tĩnh Hải Quân ở thành Lĩnh Nam, cho Biền làm Tiết Độ sứ. Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía Tây Lô Giang, chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây Bắc, cuốn quanh phía Nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông Cái. Hồi đó đang giữa tháng sáu, nước mưa lên cao.
Cao Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào sông con, đi khoảng một dặm bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ tắm ở giữa dòng sông, cười nói hớn hở. Biền hỏi họ tên thì cụ đáp “ta họ Tô tên Lịch”. Biền lại hỏi là nhà cụ ở đâu thì được đáp tiếp là ‘nhà ở trong sông này’. Dứt lời, cụ lấy tay đập nước bắn tung mù mịt rồi biến mất. Biền biết cụ là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch.
Thất bại đầu tiên của Cao Biền chính là trong việc trấn yểm vùng đất Cổ Pháp. Làng Cổ Pháp chỉ là một trong hàng ngàn ngôi làng của miền Bắc Việt Nam nhưng đây lại là nơi ngưng và kết huyệt long mạch của dãy núi Tiêu Sơn. Dân gian kể lại, đến đời La Quý An, thế đất Cổ Pháp vượng quá. Bao nhiêu vì sao tinh tú trên trời đều chầu về. Quan nhà Đường xem thiên văn, nhìn rõ, tâu lên vua nhà Đường là Đường Ý Tông (860-873). Khi Cao Biền sang Giao Châu, vua Đường dặn riêng với Cao Biền những lo lắng về linh khí nước Việt.
Theo đó vua Đường nói đại ý rằng: “Trưng thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đông Hán (25 – 220). Rồi đến Triệu Ẩu (cách người Trung Hoa gọi Bà Triệu, nhằm ý miệt thị), Lý Bôn… làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau này có biến. Khanh đến đó, trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam đi và vẽ địa đồ về cho trẫm”.
Chính vì thế, nhân dịp đi qua đất Cổ Pháp, Cao Biền có cho đào 19 cái lỗ chôn bùa ngải để yểm đất. Thế nhưng, ngài La Quý An biết vậy nên cho người lén đào 19 cái lỗ đó lên và trồng 19 cây lê vào. Về sau, đất này là nơi sản sinh ra rất nhiều người tài giỏi. Nhiều vị anh hùng hào kiệt đã được nuôi dưỡng bởi linh khí nơi này, trong đó Lý Công Uẩn.
Tiếp đó, Cao Biền lại thua tơi tả trong cuộc đấu với Thánh Tản Sơn. Thánh Tản Sơn chính là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh và là một trong tứ vị thần bất tử của Việt Nam. Để có thể diệt được thần bản địa, Cao Biền đã dùng một mưu mẹo rất “con người” là giả lập đàn cúng tế, lừa thần lên rồi dùng kiếm báu chém đầu.
Chém xong, Cao Biền đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc dùng cách cũ để thần bản địa đến. Cao Biền có lần đến núi Tản (còn gọi là núi Ba Vì), định dùng mưu mẹo này. Thế nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền nhổ một bãi nước bọt vào Cao Biền và bỏ đi (có truyền thuyết nói là mắng Cao Biền và bỏ đi).
Ngoài ra, Cao Biền cũng đã không thành công trong việc yểm vùng đất Huế. Chúng ta vẫn biết rằng, chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Nguyễn Phúc Chu cấp tiền đúc vào năm Canh Dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế.
Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi.
Đêm đến, Cao Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: “Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây…”.
Về sau, Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực để biệt lập và chống đối với họ Trịnh đã đến nơi này. Khi nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, Nguyễn Hoàng đã rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là “Thiên Mụ tự” (chùa Thiên Mụ – chùa bà lão nhà Trời).
Truyền thuyết còn kể rằng, một lần, Cao Biền bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Cao Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi. Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương.
Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát. Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý thì lại càng ham thích, rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán.
Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa. Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam.
Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép. Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm. Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng.
Trong khi đó, một truyền thuyết khác lại kể rằng: khi sang nước Nam để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Cao Biền có nuôi 100 âm binh. Đến nước Nam, Cao Biền ở trọ nhà một bà hàng nước và nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương, gọi dậy một âm binh. 100 ngày thắp đủ 100 nén hương sẽ gọi dậy được 100 âm binh.
Bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền, giả vờ quên, thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Kết quả là 100 âm binh của Cao Biền đã dậy đủ nhưng mà dậy non, thiếu ngày nên chẳng hiệu quả gì. Đây là nguồn gốc của câu thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”.
Cái chết của Cao Biền và lời kết cho những giai thoại trấn yểm
Cao Biền tuy bị bắt và bị giết ở Trung Quốc nhưng dân ta lại kể về mả Cao Biền ở nước Nam, thậm chí mả lại có ở tận vùng trung Trung bộ. Ví dụ như ở Phú Yên có truyền thuyết mả Cao Biền. Theo đó, chuyện kể là sau khi trấn yểm đất thành Đại La không thành, Cao Biền sợ linh khí nước Nam bèn đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên.
Cao Biền tìm được một làng nhỏ ven biển Phú Yên có long mạch liền quyết định sinh sống tại đây mà không về Bắc nữa. Qua nhiều năm tháng, Cao Biền giúp dân làng nhiều việc, nhất là đã giúp nhiều người xem đất dựng nhà, để mồ mả…
Lúc sắp mất, Cao Biền nhờ dân làng giúp lại cho một việc là sau khi chết chôn xác ông vào huyệt đất đã chọn trước. Nay ở xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên trên một ngọn đồi có mả Cao Biền. Ở đây có câu ca dao: “Nhìn ra thấy mả Cao Biền/ Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài”.
Có thể nói rằng, những truyện truyền kỳ về phép thuật của Cao Biền cùng những hiển linh của các vị thần nước Nam đã vô hiệu hóa được mưu của Cao Biền… hầu hết chỉ ghi lại trong Việt Điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái cùng một số các ngọc phả thần tích. Soạn niên của các tác phẩm này tuy còn có ý kiến bàn cãi nhưng chắc chắn là được viết sau thời Cao Biền nhiều thế kỷ.
Ví dụ như ở bài tựa đầu sách Việt Điện u linh tập của Lý Tế Xuyên ghi rõ là sách viết năm Kỷ Tị, Khai Hựu nguyên niên, tức là năm 1329. Bài tựa của Vũ Quỳnh trong Lĩnh Nam chích quái cho biết ông tìm được sách này và tiến hành nhuận chính vào năm 1492.
Như vậy là sách đều được viết sau thời Cao Biền làm quan ở nước ta đến hơn 500 năm. Sau một thời gian dài như vậy, trải qua bao nhiêu cuộc chiến, nguồn tư liệu hầu hết lại chỉ là truyền miệng và nội dung truyện hẳn không thể nào chính xác được.
Riêng việc Cao Biền yểm bùa ở nước Nam thì các bộ sử giá trị của ta như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư không hề nhắc đến mà chỉ kể lại chuyện nhờ trời giúp sấm sét đánh tan đá núi mà Cao Biền khai thông được kênh Thiên Uy. Các truyện truyền kì về nhân vật Cao Biền tuy có những chi tiết hoang đường sai với lịch sử song về mặt văn học, cả một quãng sinh hoạt văn hóa của tiền nhân lại hiện lên đầy màu sắc kì bí.
Ngoài ra, câu chuyện “yểm bùa” của Cao Biền theo một nhận định khác cũng là tôn vinh vùng đất địa linh nhân kiệt Thăng Long. Vùng mà Vua Lý Thái Tổ tinh tường đã chọn làm kinh đô mới, đổi tên thành Đại La là Thăng Long, chọn thần Long Đỗ (vị thần khiến Cao Biền khiếp sợ) thành Thành Hoàng của Thăng Long. Và tất cả truyền thuyết về sức mạnh của Cao Biền có lẽ cũng chỉ gói gọn trong thành ngữ của ông cha ta “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” dành cho những người nào sức yếu, tay chân run rẩy.